Ngài sanh năm Đinh Mão (1807) tại làng Tòng Sơn thuộc tỉnh Sađéc nhưng mãi đến năm Kỷ Dậu (1849) Ngài hốt nhiên tỏ ngộ, rồi bắt đầu từ đó Ngài ra đời hoằng pháp độ sanh.
Mặc dầu thời gian hoằng hóa của Ngài rất ngắn, chỉ có bảy năm, từ năm Kỷ Dậu 1849 đế năm 1856, Ngài đã gây nên một phong trào đạo hạnh chưa từng thấy, vì Ngài đã lập nên giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương, với pháp môn học Phật tu nhân.
Trong thời gian bảy năm mà gây được một giáo hệ như thế, thật là một việc hy hửu trên nền hoằng hóa lợi sanh, giáo pháp của Ngài truyền dạy là pháp môn Học Phật Tu Nhân, rất khế hợp với căn cơ và phương tiện tu học của đại đa số sanh chúng thời hiện tại.
Ngày 12 tháng tám năm Bính Thìn (1856) đức Phật Thầy Tây An viên tịch tại núi Sam (Châu đốc) lúc 12 giờ trưa.
Từ ngày các vị Tổ ở Trung Hoa bặt truyền y bát, Phật pháp đã bước dần vào con đường suy đồi. Với sự giáng lâm của đức Phật Thầy giáo pháp vô vi của đức Phật Thích Ca được xướng minh và hưng truyền trong dân chúng. Ngài đã làm tỏ rạng chánh pháp và xứng danh là vị kế thống của đức Lục Tổ Huệ Năng, như Ngài đã biểu lộ trong câu:
Khát thời uống nước Tào Khê,
Đói ăn Ma phạn tố về canh tân.
Ngoài pháp môn hành đạo đúng theo giáo pháp vô vi của Phật, chính hạnh đức của Ngài cũng đã phản ảnh được lòng từ của đức Phật. ngay như ngôi mộ của Ngài, trước khi viên tịch Ngài cũng đã dạy, sau nầy san bằng chớ không cho đắp nấm, để đất trống cho người trồng tỉa, cũng đủ biểu thị ý nghĩa vô vi.
Cũng như đức Phật Thích Ca, trong bảy năm hoằng hóa, Ngài chỉ thuyết ra chớ không có viết, các môn nhơn đệ tử của Ngài sưu chép lại thành giảng thi, phương cách giống như là các đại đệ tử của đức Phật ngày xưa đã kết tập những lời Phật thuyết mà thành các bộ kinh.
Ngài đã qui hội trong giáo phái của Ngài hằng ngàn đệ tử, trong đó có 12 vị đạo hạnh cao siêu nhất, được gọi là Thập Nhị Hiền Thủ đã liễu ngộ và đắc các phép thần thông.
Các đại đệ tử đều được Ngài mật truyền bí pháp, để mỗi người tùy phương tiện, lập chùa hoằng hóa, trị bịnh độ sanh, nhờ đó mà chẳng bao lâu, giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương mở rộng ra khắp miền Nam nước Việt…”
Mười hai đại đệ tử là:
1. Ông Cố Quản có tên là Trần văn Thành.
2. Ông Tăng Chủ được đức Phật Thầy giao cho trông coi trại ruộng ở Thới Sơn.
3. Ông Đình Tây tên là Bùi văn Tây, được đức Phật Thầy giao cho dụng cụ để trừ khử cá sấu năm chèo.
4. Ông Đạo Xuyến tên Nguyễn văn Xuyến sanh năm1833, ông tịch ngaỳ mồng 4 tháng 8 năm 1914, hưởng thọ 82 tuổi.
5. Ông Đạo Lập dựng chùa Bồng Lai ở Bài bài thuộc làng Nhơn Hưng, quận Tịnh Biên tỉnh Châu đốc. Tên thật là Phạm thái Chung pháp danh là Sùng đức Võ tiên sanh hoặc Bồng Lai La Hồng tiên sanh.
6. Ông Đạo Sĩ (ông Đạo có tên là Sĩ)
7. Ông Đạo Thắng, tên thật là Nguyễn văn Thắng
8. Ông Đạo Chợ quê ở Chưn Đùn, cù lao Ông Chưởng, xã Long Kiến, vùng Hậu Giang.
9. Ông Đạo Đọt
10. Ông đạo Hiệu tức La Hồng tiên sinh được đức Phật Thầy phái đi với ông đạo Lập lấy một lá ếm của người Tàu ở tại Bài Bài. (*)